Câu chuyện trong chiến dịch giải phóng Côn Đảo: Giữa những ngày Chiến dịch mùa Xuân 1975 đang như triều dâng thác đổ, Trung đoàn 172 Hải quân được lệnh: “Trên bờ lục quân chiếm đến đâu, dưới nước Trung đoàn phải chốt các cửa biển đến đó, không cho địch rút chạy ra lối biển”. Lực lượng của Trung đoàn gồm 2 tàu 100 tấn, trang bị pháo 37 ly 2 nòng, 1 tàu ngư lôi, 3 tàu quét mìn, 3 tàu thủy lôi, 1 tàu há mồm, tàu Đại Khánh chở đạn và 2 tàu tên lửa. Lúc này, ông Bột là Trung đoàn phó, Tham mưu trưởng, nhưng trực tiếp chỉ huy chiến đấu dưới nước (còn Trung đoàn trưởng đi vào theo đường bộ).
Với tinh thần “thần tốc, táo bạo”, Trung đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ giải phóng và chốt giữ các cảng Đà Nẵng, Quy Nhơn, Cam Ranh. Đúng 23 giờ ngày 30/4, biên đội 1 của Trung đoàn đã vào vụng Ô Cấp – một cửa ngõ quan trọng không cho các loại tàu địch rút chạy sau khi Sài Gòn thất thủ. Từ đây, Trung đoàn 172 tiến vào làm chủ cảng Rạch Dừa. Trên đường vào cảng, tàu thuyền của địch ngổn ngang, cái nổi cái chìm thật là thê thảm.
Sau khi Sài Gòn được giải phóng, thông tin liên lạc với Côn Đảo cũng bị cắt đứt. Trưa ngày 2/5, Trung đoàn 172 Hải quân được giao nhiệm vụ khẩn cấp cùng tiểu đoàn bộ binh của Bà Rịa – Vũng Tàu ra giải phóng Côn Đảo và đưa tù chính trị về đất liền. Hai phương án đã được đặt ra: Một là, đưa tối hậu thư bắt địch đầu hàng. Hai là, nếu địch không hàng, thì Hải quân và Lục quân sẽ đổ bộ chiếm đảo, nhưng cố gắng không để tù chính trị phải hy sinh.
“Tôi được giao chỉ huy Trung đoàn 172 chở quân ra Côn Đảo, gồm tàu Đại Khánh, tàu Nhật Lệ, 2 tàu chở nước, 2 tàu pháo và 2 tàu tên lửa sẵn sàng tấn công sân bay, kho tàng của địch ở Côn Đảo. Việc đưa tối hậu thư được giao cho đồng chí Luật ở Cục Chính trị Hải quân. Đồng chí Nam Ninh – Tỉnh đội trưởng Bà Rịa – Vũng Tàu được giao nhiệm vụ chỉ huy lực lượng đổ bộ.
Đến 17 giờ 30 phút, tôi ra lệnh xuất phát, đường dài 100 hải lý, ròng rã 16 giờ tàu chạy mới đến Hòn Chim, rồi rẽ vào vụng Cá Mập. Tàu giảm tốc, cảnh giác cao, vì sinh mạng bao nhiêu người trên tàu và trên đảo. Từ xa nhìn vào, Côn Đảo im lặng đáng sợ. Tôi cho tàu tắt máy tiếp tục quan sát. Trinh sát lên nóc tàu phát hiện sau hàng dương, thấp thoáng bóng cờ nửa đỏ nửa xanh. Rồi có 3 người chạy thuyền ra cho chúng tôi biết, Côn Đảo đã tự giải phóng rồi.
Ngay sau đó, chúng tôi đổ quân lên đảo, chốt giữ các mục tiêu. Trên đường đi, tôi gặp đại tá ngụy tên là Dậu – chỉ huy 180 lính canh trên đảo. Người này kể, chúa đảo Chín Khương cùng vợ con bỏ chạy bằng xuồng máy. Phó đảo là ác ôn đã bỏ chạy vào rừng. Trước khi chạy, chúa đảo giao Dậu gài mìn vào các nhà tù để đợi lệnh thủ tiêu tù nhân. Nhưng Dậu đã tháo toàn bộ hệ thống mìn và cùng tù nhân giải phóng đảo”, Đại tá Nguyễn Xuân Bột kể.